Khái niệm "bẫy thanh khoản" và "Suy kiệt Tín dụng"
Theo quan điểm Keynesian truyền thống, “bẫy thanh khoản” là một hiện tượng mà lãi suất danh nghĩa ngắn hạn đạt ngưỡng rất thấp, thậm chí 0%. Theo mô hình IS-LM, chính sách tiền tệ mở rộng sẽ vận hành thông qua việc giảm lãi suất và kích thích chi tiêu đầu tư. Nhưng khi lãi suất đã giảm đến mức 0% thì CSTT có thể sẽ không còn tác dụng nữa. Vì khi lãi suất giảm tới 0% thì CSTT mở rộng sẽ làm tăng cung tiền để tăng thanh khoản cho nền kinh tế nhưng do lãi suất không thể giảm hơn nữa nên thanh khoản tăng thêm sẽ không có tác dụng kích cầu. Do đó tổng cầu, sản xuất và việc làm sẽ không tăng (Mankiw, 2003, tr. 303). Quan điểm hiện đại về “bẫy thanh khoản” mở rộng hơn, theo đó tại mức lãi suất bằng 0%, CSTT nới lỏng vẫn có thể có hiệu quả miễn là CSTT vẫn có thể làm giảm kỳ vọng lãi suất thực trong tương lai thông qua tăng kỳ vọng lạm phát (Adam và Billi, 2006).
Trong khi đó có 3 luồng quan điểm khác nhau về định nghĩa "Suy kiệt tín dụng". Bernanke và Lown (1991) định nghĩa “Suy kiệt tín dụng” là “sự dịch chuyển rất mạnh sang trái của đường cung tín dụng ngân hàng trong điều kiện lãi suất thực an toàn và chất lượng người đi vay tiềm năng không đổi”, hàm ý tín dụng phải suy giảm "rất mạnh" và giảm ngay cả khi lãi suất cho vay cũng như tiêu chuẩn của người đi vay tốt. Trong khi đó, nhiều nhà kinh tế lại cho rằng "Suy kiệt tín dụng" là giai đoạn mà các ngân hàng từ chối cho vay ngay cả khi người vay đủ điều kiện và sẵn sàng trả lãi suất cao, hay còn gọi là sàng lọc tín dụng phi lãi suất (Owens và Schreft, 1993; Friedman, 1991; Green và Oh, 1991; Bermuer và Koubi, 2002); Luồng quan điểm thứ ba dung hòa hai luồng quan điểm trên, theo đó "Suy kiệt tín dụng" là tổng hợp của việc thu hẹp cung tín dụng và sàng lọc tín dụng phi lãi suất (Boever, 2009; Hubbard, 2008; Ding và đồng sự, 1998; Hội đồng các nhà cố vấn kinh tế, 1991).
Như vậy, có thể thấy biểu hiện rất giống nhau của hiện tượng “Bẫy thanh khoản” và “Suy kiệt tín dụng” là kênh tín dụng bị “đông cứng”, nền kinh tế gần như thiếu đi nguồn vốn cho tăng trưởng và phát triển, hiệu quả của chính sách tiền tệ bị hạn chế, nếu kéo dài thì kinh tế sẽ suy thoái trầm trọng. Tuy nhiên, hai hiện tượng này khác nhau về bản chất. “Suy kiệt tín dụng” là sự sụt giảm mạnh nguồn cung tín dụng trong khi cầu tín dụng vẫn có thể có và không được đáp ứng. Trong khi đó, hiện tượng “Bẫy thanh khoản” thường nói đến sự sụt giảm mạnh cầu tín dụng và thường xảy ra khi nền kinh tế đã trong giai đoạn suy thoái trầm trọng, kéo dài, khi đó các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các hộ gia đình đều mất niềm tin vào triển vọng phục hồi kinh tế. Ngoài ra, trong hiện tượng “bẫy thanh khoản” lãi suất thường ở mức rất thấp, sát 0% trong khi trong hiện tượng “Suy kiệt tín dụng” lãi suất thường ở mức cao. Đáng chú ý là nếu hiện tượng “Suy kiệt tín dụng” không được khắc phục kịp thời thì sau một thời gian có thể chuyển thành hiện tượng “Bẫy thanh khoản”. Vì sao lại như vậy?
Bằng chứng thực nghiệm cho thấy “Suy kiệt tín dụng” thường xảy ra trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế khiến rủi ro gia tăng, dẫn đến các NHTM tăng chi phí cho vay hoặc không sẵn lòng cho vay ra. Khi đó, NHTW có nới lỏng tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì hiệu quả của nó sẽ bị hạn chế do kênh tín dụng không còn vận hành bình thường, cản trở quá trình hồi phục kinh tế, thậm chí có thể làm tê liệt nền kinh tế. Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (Ding và đồng sự, 1998) chỉ ra hai kênh tác động chính của "Suy kiệt tín dụng" tới nền kinh tế. Một là tăng chi phí huy động vốn của doanh nghiệp. Khi tín dụng khan hiếm, chi phí huy động vốn của doanh nghiệp tăng lên có thể do lợi nhuận và giá trị doanh nghiệp bị giảm (phí bù rủi ro tăng) hoặc các ngân hàng quyết định nâng lãi suất cho vay thay vì nâng lãi suất tiền gửi để xử lý vấn đề khan hiếm nguồn tiền. Hai là sẽ có hiện tượng sàng lọc các điều kiện cho vay mà bản chất là sàng lọc các đối tác chất lượng (flight - to - quality). Các ngân hàng sẽ chọn lọc những doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, hoặc dịch chuyển vào các tài sản phi rủi ro. Như vậy, “Suy kiệt tín dụng” có thể dẫn đến những khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp khi tiếp cận vốn để sản xuất, kinh doanh. Tình trạng này nếu kéo dài nhiều năm và CSTT nới lỏng nhưng vẫn không có tác dụng khơi thông tín dụng thì có thể dẫn đến "bẫy thanh khoản" (theo định nghĩa truyền thống).
Nguồn: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-dieu-tra/bay-thanh-khoan-va-suy-kiet-tin-dung-19090.html
Trong khi đó có 3 luồng quan điểm khác nhau về định nghĩa "Suy kiệt tín dụng". Bernanke và Lown (1991) định nghĩa “Suy kiệt tín dụng” là “sự dịch chuyển rất mạnh sang trái của đường cung tín dụng ngân hàng trong điều kiện lãi suất thực an toàn và chất lượng người đi vay tiềm năng không đổi”, hàm ý tín dụng phải suy giảm "rất mạnh" và giảm ngay cả khi lãi suất cho vay cũng như tiêu chuẩn của người đi vay tốt. Trong khi đó, nhiều nhà kinh tế lại cho rằng "Suy kiệt tín dụng" là giai đoạn mà các ngân hàng từ chối cho vay ngay cả khi người vay đủ điều kiện và sẵn sàng trả lãi suất cao, hay còn gọi là sàng lọc tín dụng phi lãi suất (Owens và Schreft, 1993; Friedman, 1991; Green và Oh, 1991; Bermuer và Koubi, 2002); Luồng quan điểm thứ ba dung hòa hai luồng quan điểm trên, theo đó "Suy kiệt tín dụng" là tổng hợp của việc thu hẹp cung tín dụng và sàng lọc tín dụng phi lãi suất (Boever, 2009; Hubbard, 2008; Ding và đồng sự, 1998; Hội đồng các nhà cố vấn kinh tế, 1991).
Như vậy, có thể thấy biểu hiện rất giống nhau của hiện tượng “Bẫy thanh khoản” và “Suy kiệt tín dụng” là kênh tín dụng bị “đông cứng”, nền kinh tế gần như thiếu đi nguồn vốn cho tăng trưởng và phát triển, hiệu quả của chính sách tiền tệ bị hạn chế, nếu kéo dài thì kinh tế sẽ suy thoái trầm trọng. Tuy nhiên, hai hiện tượng này khác nhau về bản chất. “Suy kiệt tín dụng” là sự sụt giảm mạnh nguồn cung tín dụng trong khi cầu tín dụng vẫn có thể có và không được đáp ứng. Trong khi đó, hiện tượng “Bẫy thanh khoản” thường nói đến sự sụt giảm mạnh cầu tín dụng và thường xảy ra khi nền kinh tế đã trong giai đoạn suy thoái trầm trọng, kéo dài, khi đó các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các hộ gia đình đều mất niềm tin vào triển vọng phục hồi kinh tế. Ngoài ra, trong hiện tượng “bẫy thanh khoản” lãi suất thường ở mức rất thấp, sát 0% trong khi trong hiện tượng “Suy kiệt tín dụng” lãi suất thường ở mức cao. Đáng chú ý là nếu hiện tượng “Suy kiệt tín dụng” không được khắc phục kịp thời thì sau một thời gian có thể chuyển thành hiện tượng “Bẫy thanh khoản”. Vì sao lại như vậy?
Bằng chứng thực nghiệm cho thấy “Suy kiệt tín dụng” thường xảy ra trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế khiến rủi ro gia tăng, dẫn đến các NHTM tăng chi phí cho vay hoặc không sẵn lòng cho vay ra. Khi đó, NHTW có nới lỏng tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì hiệu quả của nó sẽ bị hạn chế do kênh tín dụng không còn vận hành bình thường, cản trở quá trình hồi phục kinh tế, thậm chí có thể làm tê liệt nền kinh tế. Nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (Ding và đồng sự, 1998) chỉ ra hai kênh tác động chính của "Suy kiệt tín dụng" tới nền kinh tế. Một là tăng chi phí huy động vốn của doanh nghiệp. Khi tín dụng khan hiếm, chi phí huy động vốn của doanh nghiệp tăng lên có thể do lợi nhuận và giá trị doanh nghiệp bị giảm (phí bù rủi ro tăng) hoặc các ngân hàng quyết định nâng lãi suất cho vay thay vì nâng lãi suất tiền gửi để xử lý vấn đề khan hiếm nguồn tiền. Hai là sẽ có hiện tượng sàng lọc các điều kiện cho vay mà bản chất là sàng lọc các đối tác chất lượng (flight - to - quality). Các ngân hàng sẽ chọn lọc những doanh nghiệp có tình hình tài chính tốt, hoặc dịch chuyển vào các tài sản phi rủi ro. Như vậy, “Suy kiệt tín dụng” có thể dẫn đến những khó khăn rất lớn cho doanh nghiệp khi tiếp cận vốn để sản xuất, kinh doanh. Tình trạng này nếu kéo dài nhiều năm và CSTT nới lỏng nhưng vẫn không có tác dụng khơi thông tín dụng thì có thể dẫn đến "bẫy thanh khoản" (theo định nghĩa truyền thống).
Nguồn: http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/nghien-cuu-dieu-tra/bay-thanh-khoan-va-suy-kiet-tin-dung-19090.html
Tỷ lệ lãi suất và lợi suất (Interest Rate vs Yield)
Với các công cụ nợ ngắn hạn, người cho vay thường được hưởng lãi (interest) một lần. Tiền lãi có thể được trừ (chiết khấu) khỏi tổng số tiền cho vay tại thời điểm bắt đầu hoặc cộng thêm vào thời điểm kết thúc. Dù hình thức thanh toán thế nào đi nữa, tỷ lệ lãi suất (interest rate) trên tổng số tiền cho vay phải được thỏa thuận và cố định ở thời điểm công cụ nợ bắt đầu có hiệu lực.
Với trái phiếu, thường có thời hạn dài hơn hai năm, tiền lãi được trả định kỳ theo một tỷ lệ cố định thỏa thuận ở thời điểm phát hành(*). Số lãi này có thể trả hàng năm (như trái phiếu chính phủ Đức) hay hai lần một năm (trái phiếu chính phủ Mỹ, Anh, Nhật, Úc). Trong quá khứ trái phiếu thường được phát hành dưới dạng một tờ chứng chỉ đính kèm một số tem đúng bằng số lần trả lãi định kỳ. Mỗi lần chủ của tờ trái phiếu đến lĩnh tiền lãi, nhà phát hành sẽ cắt một tờ tem khỏi cuống trái phiếu để xác nhận đã thanh toán lần trả lãi đó. Trong tiếng Anh tờ tem này gọi là couponnên mặc dù hiện giờ trái phiếu đã được điện tử hóa hoàn toàn người ta vẫn dùng thuật ngữ này để chỉ lãi (suất) định kỳ của một loại trái phiếu.
Vì trái phiếu có thể mua bán trên thị trường nên giá của nó thay đổi theo cung cầu hàng ngày chứ không nhất thiết bằng đúng với mệnh giá. Bởi vậy tỷ lệ sinh lợi của một loại trái phiếu cũng thay đổi chứ không cố định như lãi suất định kỳ (coupon) được ấn định ở thời điểm phát hành. Thực tế trong các giao dịch trên thị trường quốc tế người ta chỉ quan tâm đến giá chứ ít ai quan tâm đến lãi suất định kỳ. Tuy nhiên để tiện so sánh mức độ sinh lời của các loại trái phiếu có lãi suất định kỳ và thời gian đáo hạn khác nhau, người ta sử dụng một con số qui ước gọi là lợi suất (yield) cho mỗi loại trái phiếu.
Về mặt kỹ thuật lợi suất được tính bằng cách xác định tỷ lệ hoàn vốn nội tại (internal rate of return) của dòng tiền (cashflow) do trái phiếu đem lại. Lợi suất càng cao thì giá giao dịch trái phiếu càng rẻ, nghĩa là càng có lợi cho người mua trái phiếu hay người cho vay tiền. Nhưng việc lời lỗ trong kinh doanh trái phiếu trên thị trường thứ cấp không ảnh hưởng gì đến nhà phát hành trái phiếu. Dù lợi suất trái phiếu có tăng hay giảm thì người phát hành vẫn phải trả một khoản tiền lãi định kỳ cố định (coupon) vào một thời điểm nhất định trong năm cho đến khi đáo hạn.
Nguồn: The Economics of Money, Banking and Financial Markets - by Frederic S. MISHKIN
Với trái phiếu, thường có thời hạn dài hơn hai năm, tiền lãi được trả định kỳ theo một tỷ lệ cố định thỏa thuận ở thời điểm phát hành(*). Số lãi này có thể trả hàng năm (như trái phiếu chính phủ Đức) hay hai lần một năm (trái phiếu chính phủ Mỹ, Anh, Nhật, Úc). Trong quá khứ trái phiếu thường được phát hành dưới dạng một tờ chứng chỉ đính kèm một số tem đúng bằng số lần trả lãi định kỳ. Mỗi lần chủ của tờ trái phiếu đến lĩnh tiền lãi, nhà phát hành sẽ cắt một tờ tem khỏi cuống trái phiếu để xác nhận đã thanh toán lần trả lãi đó. Trong tiếng Anh tờ tem này gọi là couponnên mặc dù hiện giờ trái phiếu đã được điện tử hóa hoàn toàn người ta vẫn dùng thuật ngữ này để chỉ lãi (suất) định kỳ của một loại trái phiếu.
Vì trái phiếu có thể mua bán trên thị trường nên giá của nó thay đổi theo cung cầu hàng ngày chứ không nhất thiết bằng đúng với mệnh giá. Bởi vậy tỷ lệ sinh lợi của một loại trái phiếu cũng thay đổi chứ không cố định như lãi suất định kỳ (coupon) được ấn định ở thời điểm phát hành. Thực tế trong các giao dịch trên thị trường quốc tế người ta chỉ quan tâm đến giá chứ ít ai quan tâm đến lãi suất định kỳ. Tuy nhiên để tiện so sánh mức độ sinh lời của các loại trái phiếu có lãi suất định kỳ và thời gian đáo hạn khác nhau, người ta sử dụng một con số qui ước gọi là lợi suất (yield) cho mỗi loại trái phiếu.
Về mặt kỹ thuật lợi suất được tính bằng cách xác định tỷ lệ hoàn vốn nội tại (internal rate of return) của dòng tiền (cashflow) do trái phiếu đem lại. Lợi suất càng cao thì giá giao dịch trái phiếu càng rẻ, nghĩa là càng có lợi cho người mua trái phiếu hay người cho vay tiền. Nhưng việc lời lỗ trong kinh doanh trái phiếu trên thị trường thứ cấp không ảnh hưởng gì đến nhà phát hành trái phiếu. Dù lợi suất trái phiếu có tăng hay giảm thì người phát hành vẫn phải trả một khoản tiền lãi định kỳ cố định (coupon) vào một thời điểm nhất định trong năm cho đến khi đáo hạn.
Nguồn: The Economics of Money, Banking and Financial Markets - by Frederic S. MISHKIN