Tính thanh khoản, một khái niệm trong tài chính, là khả năng nhanh chóng chuyển tài sản thành tiền mà không phải chịu chi phí cao và khoảng thời gian cho giai đoạn cho chuyển thành tiền nhỏ. Ví dụ, chứng khoán hay các khoản nợ, khoản phải thu,…có khả năng đổi thành tiền mặt dễ dàng, thuận tiện cho việc thanh toán hay chi tiêu. Các cách gọi thay thế cho tính thanh khoản là: tính lỏng, tính lưu động.
Một tài sản gọi là thanh khoản khi mà thị trường của tài sản đó có nhiều người mua và người bán. Một tài sản có tính thanh khoản cao thường được đặc trưng bởi số lượng giao dịch lớn. Tài sản có tính thanh khoản càng cao thì mức độ rủi ro càng thấp.
Như vậy, tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất, luôn luôn dùng được trực tiếp để thanh toán, lưu động, tích trữ. Do vậy, tính thanh khoản cũng là một trong những chức năng của tiền tệ. Còn hàng tồn kho có tính thanh khoản thấp nhất vì phải trải qua giai đoạn phân phối và tiêu thụ chuyển thành khoản phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian mới chuyển thành tiền mặt.
Khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản là một trong những lý luận liên quan đến nhu cầu tiền tệ mà John Maynard Keynes đã nêu ra trong các tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (tên gốc tiếng Anh: The General Theory of Employment, Interest and Money) và trở thành một trong những lý luận quan trọng của kinh tế học Keynes.
Nội dung của lý luận này được diễn đạt như sau: Nhu cầu về tiền mặt của mọi người gồm hai bộ phận:
Ba giả thiết của Keynes đưa ra trong khuôn mẫu này là:
Với giả thiết chỉ có hai loại tài sản nên tổng của cải trong nền kinh tế bằng tổng khối lượng trái phiếu và tiền mặt cộng lại và bằng tổng lượng cung trái phiếu (Bs) cộng với tổng lượng tiền cung ứng (Ms). Tổng lượng trái phiếu mà mọi người muốn mua (Bd) và số tiền mà mọi người muốn giữ (Md) phải bằng với tổng lượng cung trái phiếu và cung tiền do mọi người không thể mua nhiều tài sản hơn số nguồn lực mà họ nắm giữ. Như vậy lượng cung trái phiếu và tiền phải bằng với lượng cầu trái phiếu và tiền:
Bs + Ms = Bd + Md
Biến đổi Phương trình này ta có: Bs – Bd = Md – Ms
Từ phương trình trên chúng ta nhận thấy rằng nếu:
–> Thị trường của tiền tệ cân bằng, tức là : Md = Ms
–> Thì thị trường trái phiếu cũng phải cân bằng, tức: Bs = Bd
Như vậy, việc phân tích khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản (Cung – cầu tiền tệ) cũng tương đương với việc phân tích khuôn mẫu tiền vay (Cung – cầu trái phiếu).
Có thể giải thích giả thiết trên dựa vào khái niệm “Chi phí cơ hội”. Chi phí cơ hội của một loại tài sản (trong trường hợp này là tiền) là khoản lợi nhuận bị mất đi do không nắm giữ loại tài sản thay thế khác. Khi lãi suất tăng, chi phí cơ hội của việc giữ tiền cũng tăng lên (khoản lợi nhuận bị mất đi do không nắm giữ trái phiếu) và tiền trở nên kém hấp dẫn hơn, nhu cầu về tiền sẽ giảm xuống.
Có thể dễ dàng thấy rằng ứng với mỗi một mức cung – cầu tiền sẽ xác định được một lãi suất cân bằng tương ứng. Cho nên có thể nói những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung – cầu tiền tệ trên thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất trên thị trường. Khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản cho thấy lãi suất cân bằng thay đổi khi các đường cung, cầu tiền tệ dịch chuyển.
Nguồn: ”Lý thuyết tài chính tiền tệ” – GS.TS Dương Thị Bình Minh & TS. Sử Đình Thành
Một tài sản gọi là thanh khoản khi mà thị trường của tài sản đó có nhiều người mua và người bán. Một tài sản có tính thanh khoản cao thường được đặc trưng bởi số lượng giao dịch lớn. Tài sản có tính thanh khoản càng cao thì mức độ rủi ro càng thấp.
Như vậy, tiền mặt có tính thanh khoản cao nhất, luôn luôn dùng được trực tiếp để thanh toán, lưu động, tích trữ. Do vậy, tính thanh khoản cũng là một trong những chức năng của tiền tệ. Còn hàng tồn kho có tính thanh khoản thấp nhất vì phải trải qua giai đoạn phân phối và tiêu thụ chuyển thành khoản phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian mới chuyển thành tiền mặt.
Khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản là một trong những lý luận liên quan đến nhu cầu tiền tệ mà John Maynard Keynes đã nêu ra trong các tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” (tên gốc tiếng Anh: The General Theory of Employment, Interest and Money) và trở thành một trong những lý luận quan trọng của kinh tế học Keynes.
Nội dung của lý luận này được diễn đạt như sau: Nhu cầu về tiền mặt của mọi người gồm hai bộ phận:
- Một là, nhu cầu tiền mặt cho giao dịch. Lượng cầu tiền mặt này là hàm số thuận của thu nhập. Con người kinh tế điển hình hễ có thu nhập nhiều hơn thì tiêu dùng nhiều hơn.
- Hai là, nhu cầu tiền mặt cho mục đích đầu cơ. Lượng cầu tiền mặt thứ hai này là hàm số nghịch của lãi suất. Lãi suất càng hấp dẫn thì người ta càng ít giữ tiền mặt. Lãi suất kém hấp dẫn thì có xu hướng giữ tiền mặt nhiều hơn. Nói cách khác, lãi suất chính là cái giá để người ta hy sinh sự ưa chuộng tính thanh khoản của tiền mặt (quyết định xu hướng giữ tiền).
Ba giả thiết của Keynes đưa ra trong khuôn mẫu này là:
- Thứ nhất: Người ta dùng hai loại tài sản chính để làm của cải dự trữ của mình: trái phiếu và tiền mặt. Giả thiết này làm cho khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản bỏ qua các tác động của sự thay đổi tỷ suất lợi nhuận dự tính của các loại tài sản thực khác như bất động sản, vàng, xe ô tô,…
Với giả thiết chỉ có hai loại tài sản nên tổng của cải trong nền kinh tế bằng tổng khối lượng trái phiếu và tiền mặt cộng lại và bằng tổng lượng cung trái phiếu (Bs) cộng với tổng lượng tiền cung ứng (Ms). Tổng lượng trái phiếu mà mọi người muốn mua (Bd) và số tiền mà mọi người muốn giữ (Md) phải bằng với tổng lượng cung trái phiếu và cung tiền do mọi người không thể mua nhiều tài sản hơn số nguồn lực mà họ nắm giữ. Như vậy lượng cung trái phiếu và tiền phải bằng với lượng cầu trái phiếu và tiền:
Bs + Ms = Bd + Md
Biến đổi Phương trình này ta có: Bs – Bd = Md – Ms
Từ phương trình trên chúng ta nhận thấy rằng nếu:
–> Thị trường của tiền tệ cân bằng, tức là : Md = Ms
–> Thì thị trường trái phiếu cũng phải cân bằng, tức: Bs = Bd
Như vậy, việc phân tích khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản (Cung – cầu tiền tệ) cũng tương đương với việc phân tích khuôn mẫu tiền vay (Cung – cầu trái phiếu).
- Thứ hai là tiền mặt không mang lại lợi nhuận và trái phiếu có tỷ suất lợi nhuận dự tính bằng với lãi suất thực. Như vậy, khi lãi suất tăng, tỷ suất lợi nhuận dự tính của tiền giảm một cách đáng kể so với trái phiếu và theo Lý thuyết lượng cầu tài sản – Lượng cầu của một tài sản tỷ lệ thuận với suất sinh lời dự kiến của loại tài sản đó so với các tài sản khác, cầu về tiền sẽ giảm xuống, cầu trái phiếu tăng lên.
Có thể giải thích giả thiết trên dựa vào khái niệm “Chi phí cơ hội”. Chi phí cơ hội của một loại tài sản (trong trường hợp này là tiền) là khoản lợi nhuận bị mất đi do không nắm giữ loại tài sản thay thế khác. Khi lãi suất tăng, chi phí cơ hội của việc giữ tiền cũng tăng lên (khoản lợi nhuận bị mất đi do không nắm giữ trái phiếu) và tiền trở nên kém hấp dẫn hơn, nhu cầu về tiền sẽ giảm xuống.
- Thứ ba là lượng cung tiền là do Ngân hàng trung ương kiểm soát và không thay đổi trong ngắn hạn.
Có thể dễ dàng thấy rằng ứng với mỗi một mức cung – cầu tiền sẽ xác định được một lãi suất cân bằng tương ứng. Cho nên có thể nói những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ cung – cầu tiền tệ trên thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến động của lãi suất trên thị trường. Khuôn mẫu ưa thích tính thanh khoản cho thấy lãi suất cân bằng thay đổi khi các đường cung, cầu tiền tệ dịch chuyển.
Nguồn: ”Lý thuyết tài chính tiền tệ” – GS.TS Dương Thị Bình Minh & TS. Sử Đình Thành